Binh lực và kế hoạch của hai bên Chiến_dịch_Blau

Quân đội Đức Quốc xã

Tính đến tháng 5 năm 1942, cả nước Đức Quốc xã đã dành đến 85% tiềm lực sức người và vật chất về quân sự của nó cho Mặt trận phía đông với quân số lên đến 6.198.000 người; bao gồm 5.386.000 người Đức và 812.000 người của các nước phụ thuộc Đức. Số lượng xe tăng hạng nặng và hạng trung bị thiệt hại trong 6 tháng cuối năm 1941 chỉ còn 1.453 chiếc đã được bổ sung lên đến 3.229 chiếc, số lượng máy bay chiến đấu cũng tăng từ 2.465 chiếc lên 3.390 chiếc (không kể 580 chiếc của không quân Ý và Romania tham gia cuộc chiến), pháo binh có 56.941 khẩu có cỡ nòng từ 50 mm trở lên.[10][12] Tại Cụm tập đoàn quân Nam mà chẳng bao lâu sau sẽ được chia ra thành Cụm tập đoàn quân A, Cụm tập đoàn quân B và Cụm tập đoàn quân Sông Đông, Quân Đức tập trung tại đây 102 sư đoàn trên tổng số 217 sư đoàn có mặt tại Mặt trận Xô-Đức.[13] Trong số 102 sư đoàn này có 73 sư đoàn và 8 lữ đoàn Đức và 29 sư đoàn các nước phụ thuộc Đức (Romania, Ý, Hungary, Slovakia). Vào thời điểm bắt đầu chiến dịch, Khối quân khổng lồ này gồm 2.012.120 binh lính và sĩ quan, được trang bị hơn 2.570 xe tăng, 28.300 pháo và súng cối, 2.490 máy bay.[9][14]

Tuy vậy, tinh thần chiến đấu của các đội quân đồng minh của quân đội Đức rất thấp, đến mức Thống chế Đức Gerd von Rundstedt đã phải than phiền:

Người Romania thì làm dở nhưng lại hay chỉ trích, người Ý thì luôn thấy cái gì cũng khủng khiếp, còn người Hungary thì chỉ có một ước mơ đơn giản là được trở về nhà càng nhanh càng tốt
— Gerd von Rundstedt, [12]

Binh lực

Đây là lần tập trung binh lực lớn thứ hai của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông, với số lượng quân số và phương tiện chỉ đứng sau Chiến dịch Barbarossa và trở thành cuộc huy động lớn nhất quân đội Đức Quốc xã vào một hướng mặt trận trong toàn bộ cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi Cụm tập đoàn quân Trung tâm chỉ duy trì số lượng đơn vị khoảng 70 sư đoàn, Cụm tập đoàn quân Bắc chỉ có 45 sư đoàn thì Cụm tập đoàn quân Nam đã thâu tóm trong tay 102 sư đoàn được biên chế vào 6 tập đoàn quân Đức, 2 tập đoàn quân Romania, 1 tập đoàn quân Ý và 1 tập đoàn quân Hungary. Đến ngày 7 tháng 7 năm 1942, sau khi hoàn thành Chiến dịch Voronezh (1942), Hitler đến Sở chỉ huy tiền phương của Bộ tư lệnh mặt trận phía đông đặt tại Poltava (Ukraina). Tại đây, ông ta trực tiếp giao nhiệm vụ cho các cụm tập đoàn quân A và B tác chiến trên hai hướng chiến lược khác nhau. Cụm tập đoàn quân B nhằm hướng Stalingrad, Cụm tập đoàn quân A nhằm hướng Kavkaz.

Wilhelm List

Cụm tập đoàn quân A (cuối chiến dịch được đổi thành "Cụm quân ven biển Azov") do thống chế Wilhelm List chỉ huy, bị Hitler thay thế ngày 10 tháng 9 năm 1942; từ ngày 22 tháng 11 năm 1942 do thượng tướng Paul Ludwig Ewald von Kleist chỉ huy;[15]gồm các 3 tập đoàn quân và một số sư đoàn độc lập:

  • Tập đoàn quân xe tăng 1 (trong chiến dịch còn có các tên gọi "Cụm quân Kleist", "Cụm quân Raus", "Cụm quân Heinrici" do các tướng Paul Ludwig Ewald von KleistEberhard von Mackensen (từ ngày 22 tháng 11 năm 1942) lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
    • Quân đoàn xe tăng 3 do các tướng Eberhard von MackensenHermann Breith lần lượt chỉ huy gồm sư đoàn xe tăng 13, sư đoàn xe tăng 19, sư đoàn cơ giới SS "Wiking".
    • Quân đoàn xe tăng 40, được trang bị lại và chuyển binh chủng từ Quân đoàn bộ binh 40 ngày 9 tháng 7 năm 1942 do các tướng Leo Freiherr Geyr von Schweppenburg (tháng 7 năm 1942), Gustav Fehn (tháng 9 năm 1942) và Gotthard Heinrici (tháng 11 năm 1942) lần lượt chỉ huy, gồm sư đoàn xe tăng 3, sư đoàn xe tăng 11, sư đoàn cơ giới 16, sư đoàn pháo chống tăng tự hành 670.
    • Quân đoàn sơn chiến 49 của tướng Rudolf Konrad gồm các sư đoàn bộ binh sơn chiến 1, 4 (Đức) và sư đoàn bộ binh sơn chiến 2 (Romania)
    • Quân đoàn bộ binh 52 của tướng Albert Zehler gồm các sư đoàn bộ binh 50, 111 và 370
Thống chế E. von Manstein
  • Tập đoàn quân 11 do các tướng Erich von Manstein (đến ngày 12 tháng 9 năm 1942) và Friedrich Schulz lần lượt chỉ huy; trong biên chế có:
    • Quân đoàn bộ binh 50 do các tướng Herbert von Böckmann (tháng 5 năm 1942), Philipp Kleffel (tháng 7 năm 1942) lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 58, 121, 215, 225, sư đoàn cảnh binh SS và lữ đoàn 2 SS.
    • Quân đoàn bộ binh 14 do tướng kỵ binh Erik Hansen chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 22, 170, 250 và sư đoàn bộ binh sơn chiến 5.
    • Quân đoàn bộ binh 26 do các tướng Albert WodrigErnst von Leyser (từ 1 tháng 10 năm 1942) chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 24, 96, 223 và 227 và sư đoàn pháo tự hành 207.
    • Sư đoàn bộ binh sơn chiến độc lập 3 của tướng Hans Kreysing.
  • Tập đoàn quân 17 (trong chiến dịch còn được gọi là "Cụm quân Ruoff") do tướng Richard Ruoff chỉ huy, trong biên chế có:
    • Quân đoàn bộ binh 5 của tướng Wilhelm Wetzel gồm các sư đoàn bộ binh 9, 35, 73 (Đức), sư đoàn bộ binh 10 và sư đoàn kỵ binh 3 (Romania).
    • Quân đoàn bộ binh 42 của tướng Franz Mattenklott gồm các sư đoàn bộ binh 132, 153, sư đoàn xe tăng 22 và sư đoàn phục vụ mặt đất 5 của không quân.
Maximilian von Weichs, phải

Cụm tập đoàn quân B do thượng tướng Maximilian Freiherr von Weichs chỉ huy,[16] trong biên chế có 3 Tập đoàn quân Đức, 2 tập đoàn quân Romania, 1 tập đoàn quân Ý và 1 tập đoàn quân Hungary:

  • Tập đoàn quân 2 (Đức) (cuối chiến dịch được gọi là "Cụm tác chiến Weiss ") do các tướng Hans von SalmuthWalter Weiß lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
  • Tập đoàn quân 6 (Đức) do thượng tướng Friedrich Paulus chỉ huy, trong biên chế ban đầu có:
    • Quân đoàn bộ binh 8 (Quân đoàn Breslau) của tướng Walter Heitz, gồm các sư đoàn bộ binh 62, 108 và 454.
    • Quân đoàn bộ binh 17 do các tướng Karl Hollidt, Dietrich von CholtitzWilli Schneckenburger lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 79, 113, 294 và 306.
    • Quân đoàn bộ binh 29 của tướng Hans von Obstfelder gồm các sư đoàn bộ binh 79, 168, 299 và sư đoàn xe tăng 23.
    • Quân đoàn bộ binh 51 của tướng Walther von Seydlitz-Kurzbach, gồm các sư đoàn bộ binh 71, 44, 297, 305 và 389.
  • Tập đoàn quân xe tăng 4 (trong chiến dịch còn được gọi là Cụm quân Hoth) của tướng Hermann Hoth, trong biên chế có:

Các tập đoàn quân của quân đội các nước đồng minh của Đức[16]

Tập đoàn quân không quân 4 của thượng tướng Wolfram Freiherr von Richthofen yểm hộ từ trên không và phối hợp tác chiến với các lực lượng mặt đất, trong biên chế có:[17]

  • Cụm không quân Sông Đông gồm các quân đoàn không quân 4 (ném bom), 8 (cường kích), các sư đoàn không quân tiêm kích 1 và 6, các cụm hàng không vận tải Kharkov, Kiev, Rostov (mỗi cụm tương đương một quân đoàn).
  • Cụm không quân Kavkaz gồm quân đoàn không quân 24, 25, 27 và sư đoàn tác chiến đặc nhiệm Kuban.

Tập đoàn quân không quân 6 của thượng tướng Robert Ritter von Greim được thành lập ngày 5 tháng 5 năm 1943, có 1/3 lực lượng tham gia giai đoạn cuối chiến dịch,[18] trong biên chế có:

  • Quân đoàn không quân 27.
  • Các sư đoàn không quân độc lập 1, 4, 12, 18 và 23.

Những nét cơ bản của Kế hoạch Blau qua các chỉ thị 41 và 45 của Hitler

Ngày 5 tháng 4 năm 1942, Adolf Hitler ký ban hành Chỉ thị 41, trong đó vạch ra những ý đồ chiến lược cho các hành động quân sự của Quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận Xô-Đức, trong đó có đoạn viết:

Sau khi xem xét các vị trí cuối cùng của mặt trận sau mùa đông, kết quả cho thấy trước hết cần tập trung các hoạt động chính của toàn bộ Cụm tập đoàn quân Nam để sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù tại các cửa ngõ của vùng sông Đông, chiếm lấy khu vực dầu mỏ ở Kavkaz và vượt qua dãy núi Kavkaz tiến sang Iran... Mục đích chính của các hoạt động quân sự trên Mặt trận phía đông, như đã nhấn mạnh, là quyết tâm đánh chiếm Kavkaz để giành thắng lợi quyết định và tiêu diệt các lực lượng Nga đồn trú tại khu vực phía nam Voronezh, phía tây và phía bắc sông Đông. Vì vậy, cần di chuyển các lực lượng chủ lực và dự bị theo hướng trực tiếp hoặc bổ sung cho các lực lượng đang tiến công trên mặt trận.
Tổng thể các đòn tấn công được bắt đầu bằng các bước đột phá từ khu vực phía nam Ogla theo hướng Voronezh. Bước hai dự định tung các đơn vị thiết giáp và cơ giới mạnh mẽ hơn phát triển lên phía bắc và phía nam. Mục đích của nhiệm vụ này là đột phá và đánh chiếm Voronezh. Vào thời điểm đó, các đơn vị bộ binh có nhiệm vụ ngay lập tức thiết lập một mặt trận phòng thủ vững mạnh giữa các điểm của cuộc tấn công từ Ogla đến Voronezh. Sau khi đột phá Voronezh, các đơn vị thiết giáp và cơ giới có nhiệm vụ tấn công từ Voronezh theo sườn trái của họ, men theo tả ngạn sông Đông tiếp tục tấn công về phía nam để hỗ trợ cho bước đột phá thứ hai được thực hiện tại các khu vực phía đông Kharkov. Ngoài ra, để đạt các mục tiêu ban đầu, không tấn công vỗ mặt quân Nga mà phải kết hợp với việc luồn sâu vào hạ lưu sông Đông để tiêu diệt quân đội Nga.
Bước thứ ba của các đòn tấn công là đánh chiếm vùng hạ lưu sông Đông, phát triển một phần lực lượng đến Stalingrad; hướng đòn tấn công về phía nam qua Taganrog - Artemovsk và về phía đông qua sông Bắc Donets qua đến Voroshilovgrad. Bước cuối cùng là dùng xe tăng phối hợp với bộ binh đánh chiếm Stalingrad cùng lúc với việc tiến chiếm vùng dầu mỏ Grozny - Baku
— Adolf Hitler, [19]

Chỉ thị này cũng là mệnh lệnh cho Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức Quốc xã phải soạn thảo một kế hoạch chi tiết cho các hành động quân sự tại chiến trường dựa trên kế hoạch tấn công chiến lược mang tên "Siegfried" được hình thành từ tháng 3 năm 1942 và lần này, nó được đích thân Hitler chọn cái tên "Blau" từ ngày 11 tháng 4 năm 1942.[20]

Kế hoạch Blau có một quy mô huy động quân đội khổng lồ trên một địa bàn rộng đến 1,5 triệu km2 nên Bộ tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã đã phải dự kiến chia đôi Cụm tập đoàn quân Nam cũng như vạch các kế hoạch chiến dịch bộ phận cho nó. Hitler chuẩn y cả hai đề nghị này và ngày 7 tháng 7, ông ta đã ra lệnh chia tách Cụm tập đoàn quân Nam thành các Cụm tập đoàn quân A và B. Ngày 23 tháng 7, đúng một năm một tháng sau khi phát động Chiến dịch Barbarossa, Hitler ký ban hành tiếp Chỉ thị 45. Chỉ thị này quy định chi tiết hơn các hoạt động quân sự của nước Đức Quốc xã tại miền Tây Nam Liên Xô trong hai bước đầu của kế hoạch được dự kiến tiến hành bởi Chiến dịch Braunschweig với một số mệnh lệnh cụ thể sau đây:

A: Đối với lục quân:
1. Mục tiêu trước mắt của Cụm tập đoàn quân "A" là bao vây và tiêu diệt binh lực đối phương trong khu vực phía nam và đông nam Rostov và đánh chiếm vùng hạ lưu sông Đông. Để thực hiện nhiệm vụ này, phải thành lập ở khu vực Konstantinovskaya - Tsymlyanskaya một cánh quân xung kích gồm các đơn vị cơ giới mạnh tấn công theo hướng chung về phía tây nam Tikhoretsk; các sư đoàn bộ binh, kỵ binh và sơn chiến phải tăng tốc độ vượt sông Đông ở vùng Rostov. Trong khi đó, các lực lượng đặc nhiệm tiên phong phải cắt đứt tuyến đường sắt Tikhoretsk - Stalingrad. Cánh quân thiết giáp thứ hai của Cụm tập đoàn quân "A" (bao gồm cả sư đoàn xe tăng 24) phải tiếp tục tấn công ở phía đông để siết chặt với sườn phải của Cụm tập đoàn quân "B". Sư đoàn cơ giới "Großdeutschland" làm lực lượng dự bị.
2. Sau khi tiêu diệt các lực lượng đối phương ở phía nam sông Đông, Cụm tập đoàn quân A có nhiệm vụ đánh chiếm toàn bộ bờ phía đông của Biển Đen, làm tê liệt các cảng ở Biển Đen và hạm đội Biển Đen của đối phương. Để thực hiện nhiệm vụ này, Tập đoàn quân 11 với sự hỗ trợ của hải quân từ Krym sẽ vượt qua eo biển Kerch, đổ bộ lên Taman, tiến dọc bờ Biển Đen đến phía tây dãy núi Kavkaz. Các lực lượng còn lại với các sư đoàn sơn chiến làm nòng cốt sẽ tập trung tấn công Kuban, đánh chiếm các khu vực cao nguyên Maikop - Armavir. Cụm quân này cần lợi dụng những nhóm chống đối Xô Viết ở sườn tây Kavkaz để hỗ trợ cho Tập đoàn quân 11 đánh chiếm bờ Biển Đen.
3. Đồng thời với hoạt động của kỵ binh, bộ binh, phải sử dụng các đơn vị cơ giới để hình thành một lá chắn thép ở sườn phía đông, đánh chiếm Terrible và cắt đứt con đường giao thông quân sự giữa Ossetia và Gruzia. Sau đó, tiến dọc theo bờ biển Kaspi để đánh chiếm Baku.
Cụm tập đoàn quân có thể sẽ được tăng cường Quân đoàn sơn chiến Alpine của quân đội Ý. Những hoạt động của Cụm tập đoàn quân "A" lấy tên mã là "Edelweiss". Mức độ bí mật: Tuyệt mật.
4. Cụm tập đoàn quân "B" có nhiệm vụ thiết lập một tuyến phòng thủ mạnh dọc theo sông Đông từ Bắc xuống Nam; bước tiếp theo là vượt sông Đông và đánh bại đối phương tại Stalingrad, đánh chiếm thành phố và eo đất giữa sông Don và sông Volga. Sau đó, huy động lực lượng cơ giới tấn công dọc theo sông Volga với nhiệm vụ đánh chiếm Astrakhan và cuối cùng cắt đứt tuyến vận tải thủy của đối phương trên sông Volga. Những hoạt động của Cụm tập đoàn quân "B" lấy tên mã là "Gray Heron". Mức độ bí mật: Tuyệt mật.
— Adolf Hitler, [21]

Chỉ thị này cũng quy định bốn nhiệm vụ chính của Tập đoàn không quân 4 là yểm trợ các hoạt động mặt đất của lục quân Đức tại các khu vực chiến sự, ném bom cắt đứt và làm tê liệt các tuyến đường sắt và các tuyến ống dẫn dầu phía sau mặt trận của quân đội Liên Xô, ném bom hủy diệt Stalingrad làm cho nó mất hết ý nghĩa là một căn cứ bàn đạp quân sự, khống chế vùng trời Kuban và khống chế các tuyến vận tải đường thủy của đối phương trên hai con sông Đông và Volga. Nhiệm vụ ném bom các giàn khoan khai thác dầu ở Grozny và Baku đã không được đặt ra vì Hitler muốn các mỏ dầu này bị đánh chiếm trong tình trạng đang hoạt động. Hải quân Đức ở Biển Đen cũng được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho bộ binh (Tập đoàn quân 11), dùng tàu ngầm phá hoại Hạm đội Biển Đen (Liên Xô), kiềm chế hỏa lực của các căn cứ trên bờ, trên các quân cảng Liên Xô dọc bờ đông Biển Đen. Kế hoạch này vẽ ra một viễn cảnh thắng lợi quá lớn đến mức nó đã gây niềm tin thái quá đến cả chính những người vạch ra nó khi một số tướng lĩnh hải quân Đức đã được Hitler giao nhiệm vụ khởi thảo kế hoạch thành lập Hạm đội Kaspi để phá hoại đường tiếp tế của đồng minh Anh cho Liên Xô từ Iran qua biển Kaspi[21] và các tướng lĩnh công binh được lệnh nghiên cứu khả năng xây dựng một con đường sắt vắt qua dãy Kavkaz đi thẳng đến Bagdad.[22]

Để giải quyết nhiệm vụ thứ nhất và nhiệm vụ thứ hai của Kế hoạch Blau, thê đội 1 của chiến dịch (mà sau này trở thành Cụm tập đoàn quân B) được tổ chức với hơn 40% bộ binh và kỵ binh, trên 50% lực lượng thiết giáp, bao gồm 918.200 sĩ quan và binh sĩ, 1.260 xe tăng, khoảng 17.000 pháo và súng cối, 1.640 máy bay. Trong khi cụm quân này tiến đến sông Volga, Cụm tập đoàn quân A với binh lực được phân chia gồm hơn 1.093.200 quân, 1.310 xe tăng, 11.300 pháo và súng cối, 850 máy bay cũng tổ chức tấn công vào Bắc Kavkaz.[23]

Quân đội Liên Xô

Quân đội Liên Xô bị tổn thất hàng triệu người trong các trận đánh liên tục từ mùa hè đến mùa đông năm 1941 để làm thất bại Kế hoạch Barbarossa của Hitler. Tháng 12 năm 1941, họ chỉ còn trong tay 4.200.000 quân. Nhờ các biện pháp động viên và huấn luyện cấp tốc quân dự bị cùng với các nỗ lực sản xuất vũ khí và phương tiện quân sự, đến tháng 6 năm 1942, quân đội Liên Xô đã có tổng quân số 5.500.000 người, 57.500 pháo và súng cối, 4.900 xe tăng và 4.200 máy bay.[10] Tuy vậy, các trận đánh cục bộ không thành công tại các "chỗ lồi" Rzhev-Viazma, bán đảo Krym, khu vực Spas-Demensk và đặc biệt là thất bại trong Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya đã làm tiêu hao một phần đáng kể lực lượng này. Chất lượng vũ khí của Liên Xô vẫn là vấn đề thường xuyên "nóng" đối với Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô. Mặc dù có ưu thế 1,5/1 về xe tăng nhưng cho đến trước trận Stalingrad, 1/3 số xe tăng của Liên Xô vẫn là những chiếc BT và T-26, T-35, T-60 với hỏa lực, vỏ giáp bảo vệ, sức cơ động và tầm hoạt động thua kém so với xe tăng Đức.[23] Nắm trong tay ưu thế tương đối về binh lực nhưng quân đội Liên Xô lại không nắm được quyền chủ động chiến lược khi trong Bộ Tổng tư lệnh tối cao, cuộc tranh cãi giữa tấn công chiến lược và phòng thủ chiến lược đã không đi đến một giải pháp tổng thể.[24]

Binh lực

Tình hình bố trí và biên chế binh lực của quân đội Liên Xô tại sườn phía nam mặt trận Xô-Đức trong tiến trình chiến dịch khá phức tạp. Đã có đến 2 lần bố trí lại trong khoảng thời gian chỉ 6 tháng. Đến ngày 28 tháng 6, họ có 4 Phương diện quân và một cụm tác chiến tương đương Phương diện quân; được bố trí thành hai bộ phận bảo vệ hai hướng mặt trận. Hướng Volga-Đông có 3 tập đoàn quân Voronezh, Tây Nam và Nam. Hướng Kavkaz có Phương diện quân Bắc Kavkaz và Cụm tác chiến Primorie. Phương diện quân Voronezh được thàh lập ngày 9 tháng 7 trên cơ sở cánh Bắc của Phương diện quân Tây Nam. Đến ngày 17 tháng 7, Phương diện quân Stalingrad được thành lập trên cơ sở cánh Nam của Phương diện quân Tây Nam đã bị giải thể. Ngày 30 tháng 9, Phương diện quân Stalingrad đổi tên thành Phương diện quân Sông Đông. Ngày 7 tháng 8, Phương diện quân Đông Nam được thành lập trên cơ sở chia tách Phương diện quân Stalingrad, đến ngày 30 tháng 9, Phương diện quân này đổi tên thành Phương diện quân Stalingrad. Cuối cùng, Phương diện quân Tây Nam được phục hồi vào ngày 25 tháng 10 năm 1942.[25][26]

Hướng Volga-Đôngnhỏ|130px|Nguyên soái F.I. Golikov

  • Phương diện quân Voronezh được thành lập ngày 9 tháng 7 năm 1942, do trung tướng F. I. Golikov làm tư lệnh,[27][28] trong biên chế có:
    • Tập đoàn quân 6 (thành lập lần thứ ba) do trung tướng F. M. Kharitonov chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 45, 99, 160, 174, 212, 219, 309 và sư đoàn pháo binh 141.[29]
    • Tập đoàn quân 40 do các tướng M. A. Parsegov, M. M. Popov và K. S. Moskalenko lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 10, 135, 293, các lữ đoàn phục vụ mặt đất 2, 3, 4 của Tập đoàn quân không quân 2, lữ đoàn pháo binh 5, các trung đoàn pháo binh 21, 595, 738 và 760.[29]
    • Tập đoàn quân 60 (thành lập lần thứ hai ngày 7 tháng 7 năm 1942 từ binh lực của Tập đoàn quân dự bị 3) do thiếu tướng I. D. Cherniakhovsky chỉ huy; gồm các sư đoàn bộ binh 107, 121, 161, 167, 195, 232, 237, và 303, lữ đoàn xe tăng 75, pháo binh và các đơn vị trợ chiến.[29]
    • Tập đoàn quân không quân 2 được thành lập ngày 12 tháng 5 năm 1942, được phiên chế cho Phương diện quân Voronezh ngày 9 tháng 7 năm 1942; do các thiếu tướng S. A. Kravsovsky và K. N. Smirnov lần lượt chỉ huy; gồm các sư đoàn tiêm kích 205 và 207, các sư đoàn ném bom 208 và 223, các sư đoàn cường kích 225 và 227.
Tập tin:Semyon Konstantinovich Timoshenko (1895-1970), Soviet military commander.jpgNguyên soái S.K. Timoshenko
  • Phương diện quân Tây Nam (cũ) do nguyên soái S. K. Timoshenko chỉ huy; ngày 30 tháng 9, được đổi thành Phương diện quân Stalingrad; sau Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya, trong biên chế còn lại:
    • Tập đoàn quân 21 do trung tướng Ya. D. Cherevischenko chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 51, 621, 76, 119, 227, 293 và 301. Ngày 30 tháng 9, tập đoàn quân này được chuyển thuộc Phương diện quân Stalingrad, sau đó, đến Phương diện quân Sông Đông.
    • Tập đoàn quân 28 do thiếu tướng V. D. Kryuchenkin chỉ huy, sau Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya, trong biên chế còn lại các sư đoàn bộ binh 359, 363, 367 và 375 trong tình trạng suy yếu. Ngày 31 tháng 7, Tập đoàn quân này bị giải thể để chuyển thành Tập đoàn quân xe tăng 4. Đến ngày 9 tháng 9 năm 1942, Tập đoàn quân 28 được thành lập lại trong đội hình Phương diện quân Stalingrad, biên chế ban đầu gồm các sư đoàn bộ binh 34, 76, 116, 248; các lữ đoàn bộ binh 52, 152 và 159; do trung tướng V. F. Gerasimenko chỉ huy.
    • Tập đoàn quân 38 do thiếu tướng K. S. Moskalenko chỉ huy, trong biên chế còn các sư đoàn bộ binh 47, 169, 199, 304, quân đoàn xe tăng 24 (thiếu). Ngày 23 tháng 7, nó được tổ chức lại thành Tập đoàn quân xe tăng 1 và chuyển thuộc Phương diện quân Stalingrad (sau này là Phương diện quân Sông Đông).
Nguyên soái A.I. Yeryomenko
  • Phương diện quân Stalingrad (thành lập trên cơ sở Phương diện quân Tây Nam bị giải thể ngày 17 tháng 7), do các tướng V. N. Gordov (đến 13 tháng 8) và A. I. Yeryomenko lần lượt chỉ huy. Đến ngày 30 tháng 9, Phương diện quân này đổi thành Phương diện quân Sông Đông do tướng K. K. Rokosovsky chỉ huy. Trong biên chế Phương diện quân có:
    • Tập đoàn quân xe tăng 1, được thành lập ngày 22 tháng 7 trên cơ sở một phần khung sĩ quan và binh sĩ của Tập đoàn quân 38, do thiếu tướng K. S. Moskalenko chỉ huy, biên chế ban đầu gồm các quân đoàn xe tăng 13, 28, lữ đoàn xe tăng 158, các sư đoàn bộ binh 131 và 139. Toàn bộ trang bị chỉ có 160 xe tăng.[30] Trong các trận đánh phòng ngự tại bờ Tây sông Đông, tập đoàn quân này bị mất toàn bộ xe tăng và bị giải thể ngày 6 tháng 8, các sĩ quan và binh sĩ còn lại được rút ra cùng cơ quan chỉ huy của tập đoàn quân để thành lập bộ khung cho Phương diện quân Đông Nam.[29]
    • Tập đoàn quân xe tăng 4 được thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1942 trên cơ sở khung cán bộ chỉ huy và quân số còn lại của Tập đoàn quân 28 do thiếu tướng V. D. Kyuchenkin và trung tướng P. I. Batov lần lượt chỉ huy. Biên chế ban đầu gồm các quân đoàn xe tăng 22; các lữ đoàn cơ giới 5, 25, 133 và sư đoàn bộ binh 18. Toàn bộ phương tiện chỉ có 80 xe tăng.[30] Trong quá trình chiến đấu ở Stalingrad, tập đoàn quân này bị mất hết xe tăng và giải thể ngày 22 tháng 10 để thành lập Tập đoàn quân 65 thuộc Phương diện quân Sông Đông.[29]
    • Tập đoàn quân 62 do các thiếu tướng V. Ya. Konpakchi (đến tháng 7 năm 1942), A. I. Lopatin (đến giữa tháng 8 năm 1942), N. I. Krylov (đến giữa tháng 9 năm 1942) và trung tướng V. I Chuikov chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 33 (cận vệ), 147, 181, 184, 192, 196, lữ đoàn xe tăng 121, 4 đoàn tàu hỏa chiến đấu bọc thép (mỗi đoàn tàu có 8 toa), các trung đoàn pháo binh 508, 555, 614, 652 và 881, các tiểu đoàn pháo chống tăng 1185, 1186, 1183.[23][29]
    • Tập đoàn quân 64, thành lập ngày 10 tháng 7 trên cơ sở Tập đoàn quân dự bị 1, do các trung tướng V. I. Chuikov (đến cuối tháng 8 năm 1942) và M. S. Shumilov lần lượt chỉ huy, gồm sư đoàn bộ binh 18, 29, 112, 131, 214 và 229; các lữ đoàn hải quân đánh bộ 66 và 154; các lữ đoàn xe tăng 40 và 137, các trung đoàn học viên pháo binh 1 (Zhytomyr), 3 (Krasnodar) và học viên trường quân sự Ordzhonikidze.[29]
    • Tập đoàn quân 63 được thành lập ngày 9 tháng 7 trên cơ sở Tập đoàn quân dự bị 5, do trung tướng V. I. Kuznetsov chỉ huy. Ngày 29 tháng 10, nó được chuyển thành Tập đoàn quân cận vệ 1 và được điều đến Phương diện quân Tây Nam (mới). Trong biên chế ban đầu của tập đoàn quân gồm sư đoàn bộ binh cận vệ 14, các sư đoàn bộ binh 1, 127, 153, 197, và 203.[29]
K.K. Rokossovsky
  • Phương diện quân Sông Đông (do Phương diện quân Stalingrad cũ đổi tên), do trung tướng K. K. Rokossovsky chỉ huy, trong biên chế có:
    • Tập đoàn quân 21 (chuyển từ Phương diện quân Tây Nam cũ đến)
    • Tập đoàn quân 24, thành lập lần thứ ba ngày 1 tháng 9 năm 1942, do các tướng D. T. Kozlov, I. V. Galanin và V. A. Gorbatov lần lượt chỉ huy. Biên chế ban đầu gồm các sư đoàn bộ binh 173, 207, 221, 292, 308 và Lữ đoàn xe tăng 217. Trong quá trình Chiến dịch Sao Thiên VươngChiến dịch Cái Vòng, Tập đoàn quân này được bổ sung các sư đoàn bộ binh 214, 233, 258, 260 và 273.
    • Tập đoàn quân 62 (từ Phương diện quân Stalingrad mới chuyển sang)
    • Tập đoàn quân 65, (nguyên là Tập đoàn quân xe tăng 4, được chuyển từ Phương diện quân Stalingrad cũ sang).
    • Tập đoàn quân 66, thành lập ngày 27 tháng 8 năm 1942 trên cơ sở Tập đoàn quân dự bị 8, do các tướng V. N. Kurdiumov, S. A. Kalinin, R. Ya. Malinovsky và A. S. Zhadov lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 49, 64, 120, 231, 299 và 316; các lữ đoàn xe tăng 10, 49 và 148.
    • Tập đoàn quân không quân 16 do các tướng P. S. Stepanov và S. I. Rudenko lần lượt chỉ huy gồm các sư đoàn tiêm kích 220, 238, các sư đoàn náem bom 228, 291 và 2 trung đoàn cường kích độc lập.
Trong quá trình Chiến dịch Cái Vòng, Phương diện quân Sông Đông còn được chuyển thuộc các tập đoàn quân 57 và 64 từ Phương diện quân Stalingrad mới.
  • Phương diện quân Đông Nam được thành lập ngày 7 tháng 8 trên cơ sở chia tách 5 tập đoàn quân phía nam của Phương diện quân Stalingrad và Bộ tham mưu tập đoàn quân xe tăng 1, do thượng tướng A. I. Yeryomenko chỉ huy. Từ ngày 28 tháng 9, Phương diện quân này đổi thành Phương diện quân Stalingrad và vẫn do A. I. Yeryomanko chỉ huy. Ở giai đoạn cuối Chiến dịch Stalingrad, ngày 1 tháng 1 năm 1943, phương diện quân được đổi thành Phương diện quân Nam do trung tướng R. Ya. Malinovsky chỉ huy. Trong biên chế lúc cao nhất gồm có:
    • Tập đoàn quân 28 (chuyển từ Phương diện quân Stalingrad cũ sang)
    • Tập đoàn quân 64 (chuyển từ Phương diện quân Stalingrad cũ sang)
    • Tập đoàn quân 51 do các tướng A. M. Kuznetsov, N. I. Trufanov, T. K. Kolomiets và G. F. Zakharov lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 64, 96, 172, 184, 263, 273, 279, 316.
    • Tập đoàn quân 57 do các tướng N. D. Nikishev và F. I. Tolbukhin lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 32, 33, 37, 137, sư đoàn trượt tuyết 26, các sư đoàn kỵ binh 60 và 79.
    • Tập đoàn quân cận vệ 2 do các tướng R. Ya. Malinovsky và G. F. Zakharov lần lượt chỉ huy, trong biên chế gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 1, 2 và 13.
    • Tập đoàn quân không quân 8 do tướng T. T. Khryukin chỉ huy gồm các sư đoàn tiêm kích 206, 235, 268 và 269, sư đoàn cường kích 226, các sư đoàn ném bom 270, 271 và 272.
  • Phương diện quân Tây Nam (mới), thành lập ngày 25 tháng 10 năm 1942, do thượng tướng N. F. Vatutin chỉ huy; trong biên chế có:
    • Tập đoàn quân xe tăng 5 thành lập lần đầu ngày 5 tháng 6 năm 1942, do thiếu tướng A. I. Lizyukov chỉ huy; trong biên chế ban đầu có các quân đoàn xe tăng 2, 7, 22, sư đoàn bộ binh 340 và lữ đoàn pháo chống tăng 19. Tại các chiến dịch VoronezhBraunschweig‎, tập đoàn quân này bị xé lẻ thành các lữ đoàn xe tăng độc lập để tăng cường cho các sư đoàn bộ binh. Ngày 3 tháng 9 năm 1942, tập đoàn quân được thành lập lại với biên chế gồm các quân đoàn xe tăng 1, 22, 26 và sư đoàn bộ binh 119, do các tướng P. S. Rybalko, P. L. Romanenko, M. M. Popov và I. T. Shlemin lần lượt chỉ huy.
    • Tập đoàn quân cận vệ 1 (nguyên là một bộ phận Tập đoàn quân 63), thành lập ngày 5 tháng 11 năm 1942 do các tướng K. S. Moskalenko và I. M. Chistiakov lần lượt chỉ huy, gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 4 và 6 (nguyên là các quân đoàn xe tăng 18 và 25), Quân đoàn xe tăng 24 và các sư đoàn bộ binh 153, 197.
    • Tập đoàn quân cận vệ 3 (nguyên là một bộ phận Tập đoàn quân 63), thành lập ngày 5 tháng 12 năm 1942 do trung tướng D. D. Lelyushenko chỉ huy, gồm Quân đoàn bộ binh cận vệ 14, Quân đoàn cơ giới cận vệ 1, Sư đoàn bộ binh cận vệ 50, các sư đoàn bộ binh 197, 203, 278, Lữ đoàn cơ giới 22, các lữ đoàn bộ binh 90, 94 và ba đại đội xe tăng độc lập.
    • Tập đoàn quân 6 (chuyển đến từ Phương diện quân Voronezh)
    • Tập đoàn quân xung kích 5 thành lập ngày 9 tháng 12 năm 1942 trên cơ sở Tập đoàn quân dự bị 10, do các tướng M. M. Popov và V. D. Tsvetaev lần lượt chỉ huy, gồm Quân đoàn cơ giới 4, Quân đoàn xe tăng 7, các sư đoàn bộ binh 87, 300 (tái lập) và 315.
    • Tập đoàn quân không quân 17 do tướng S. A. Krasovsky chỉ huy gồm các sư đoàn tiêm kích 282, 288, các sư đoàn ném bom 221, 267, sư đoàn ném bom ban đêm 262, các trung đoàn cường kích 208 và 637, tổng cộng có 447 máy bay.

Hướng Kavkaz

Binh lực quân đội Liên Xô tại hướng Kavkaz ban đầu bị phân tán do Liên Xô phải đưa ba tập đoàn quân 44, 47 và Trung Á 53 sang đóng tại Iran theo đề nghị của Chính phủ Anh và hiệp ước tương trợ quân sự ký kết giữa nước Nga Xô Viết và Iran năm 1921. Đến cuối năm 1941, các tập đoàn quân 46 và 47 mới được rút về để phòng thủ Kavkaz.[31] Phương diện quân Kavkaz thành lập ngày 30 tháng 12 năm 1941 do Trung tướng D. T. Kozlov chỉ huy, gồm các tập đoàn quân bộ binh 44, 45, 46, 47 và 51. Đến ngày 28 tháng 1 năm 1942 được chia tách thành Phương diện quân Zakavkaz và Phương diện quân Krym.[27] Do thua trận trong Chiến dịch Krym-Sevastopol, ngày 19 tháng 5, Phương diện quân Krym bị giải thể để thành lập Phương diện quân Bắc Kavkaz và đến ngày 28 tháng 7 được đổi thành Cụm tác chiến Biển Đen. Phương diện quân Zakavkaz được chuyển thành Cụm tác chiến Bắc Kavkaz. Trong toàn bộ chiến dịch, Quân đội Liên Xô tại hướng Kavkaz gồm các đơn vị:

Nguyên soái S.M. Budyonny
  • Cụm tác chiến Bắc Kavkaz do Nguyên soái S. M. Budyonny (đến tháng 9 năm 1942) và trung tướng I. I. Maslenikov lần lượt chỉ huy, trong biên chế ban đầu có:
    • Tập đoàn quân bộ binh 9 (chuyển đến từ Phương diện quân Nam cũ) do các tướng P. M. Koslov, A. I. Lopatin, F. A. Parkhomenko, K. A. Koroteev và V. V. Glagolev lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 80, 81, 82, 84, 86 và Quân đoàn cơ giới 11.
    • Tập đoàn quân bộ binh 37 (tái lập) do các tướng P. M. Kozlov, K. A. Koroteev và A. A. Filatov lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 51, 96, 99, 216, 253 và 295.
    • Tập đoàn quân bộ binh 44 (rút từ Iran về) do các tướng A. A. Khriashev, I. E. Petrov, K. S. Melnik và V. A. Khomenko chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh sơn chiến 20 và 77, các sư đoàn bộ binh 138, 156, 157, 236, 302 và sư đoàn kỵ binh 17.
    • Tập đoàn quân bộ binh 58 do các tướng V. A. Khomenko (đến tháng 1 năm 1942) và K. S. Melnik lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 317, 328 và 337, sư đoàn Makhachkala của Bộ Nội vụ và 3 lữ đoàn bộ binh độc lập.
    • Tập đoàn quân không quân 4 do các tướng F. A. Naumenko và V. A. Vershinin lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn tiêm kích 216, 217 và 229, sư đoàn cường kích 230, các sư đoàn ném bom 218, 219 và 7 trung đoàn độc lập ném bom ban đêm.
  • Cụm tác chiến Biển Đen do thượng tướng I. E. Petrov chỉ huy, trong biên chế có:
    • Tập đoàn quân bộ binh 18 do các tướng A. A. Grechko, A. I. Ryzhov và K. A Koroteev lần lượt chỉ huy, gồm Quân đoàn bộ binh cận vệ 10, Quân đoàn bộ binh 16, các sư đoàn bộ binh 176 và 318, Lữ đoàn xe tăng 5, các lữ đoàn hải quân đánh bộ 83 và 255, các lữ đoàn bộ binh 107 và 165, trung đoàn đổ bộ đường không 31, trung đoàn pháo chống tăng 29 và hai trung đoàn pháo binh.
    • Tập đoàn quân bộ binh sơn chiến 46 (rút từ biên giới Azerbaijan-Thổ Nhĩ Kỳ về) do các tướng V. F. Sergatskov, K. N. Leselidze, I. P. Roslyi và A. I. Ryzhov lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn sơn chiến 9 và 47, sư đoàn bộ binh 4, sư đoàn cơ giới 7, các trung đoàn sơn pháo 51, 457, 547 và 647.
    • Tập đoàn quân bộ binh sơn chiến 47 (rút từ Iran về) do các tướng G. P. Kotov, A. A. Grechko, F. V. Kamkov và K. N. Leselidze lần lượt chỉ huy, gồm các sư đoàn sơn chiến 63, 76, sư đoàn bộ binh 236, các sư đoàn xe tăng hạng nhẹ 6 và 54, các trung đoàn pháo binh 116 và 456.
    • Tập đoàn quân bộ binh 56 do các tướng V. V. Tsyganov, A. I. Ryzhov và A. A. Grechko chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 31, 317, 343, 347, 353, sư đoàn sơn chiến 302, các sư đoàn kỵ binh 62, 64, 68, 70, các lữ đoàn xe tăng 6, tiểu đoàn xe tăng độc lập 81 và sư đoàn pháo chống tăng 7.
    • Tập đoàn quân không quân 5 do thượng tướng S. K. Goryunov chỉ huy gồm các sư đoàn tiêm kích 236, 237, 265, sư đoàn cường kích 238, sư đoàn ném bom 312 và 2 trung đoàn ném bom ban đêm.

Kế hoạch

Tại Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã xuất hiện những ý kiến trái ngược nhau về dự kiến các hoạt động quân sự trong chiến cục 1942-1943, trước mắt là mùa hè năm 1942. Theo báo cáo của chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước N. A. Voznesensky thì mặc dù đã duy trì và đẩy mạnh sản xuất vũ khí và phương tiện chiến tranh so với tháng 12 năm 1941 nhưng Liên Xô vẫn chưa vượt lên rõ rệt so với nước Đức Quốc xã về sản lượng vũ khí tiên tiến.[10] Bộ Tổng tham mưu cũng cung cấp số liệu về binh lực cho thấy vào tháng 3 năm 1942, quân Đức đang chiếm ưu thế 1,2/1 về người, 1,3/1 về pháo và súng cối, 1,4/1 về máy bay. Quân đội Liên Xô có ưu thế hơn về xe tăng (1,3/1) nhưng đó chỉ là về số lượng. Căn cứ các số liệu đó, I. V. Stalin đồng ý rằng không đủ lực lượng và phương tiện để mở các cuộc tấn công lớn.[32] Mặc dù Bộ Tổng tham mưu đã báo cáo phân tích nhiều số liệu cho thấy một khi Đức đã tập trung đến 102 sư đoàn ở Cụm tập đoàn quân Nam trong đó có hai tập đoàn quân xe tăng (1 và 4) thì rõ ràng mặt trận chính sẽ diễn ra tại đây nhưng I. V. Stalin vẫn khăng khăng cho rằng quân Đức vẫn sẽ lại tấn công vào hướng Moskva. Ý kiến này được đa số thành viên của Đại bản doanh đồng tình khi họ cho rằng, số phận cuộc chiến vẫn sẽ được quyết định ở Moskva.[33] Như đã nhiều lần diễn ra, G. K. Zhukov lại đứng về phía thiểu số khi ông cho rằng chiến trường phía nam đang chứa đựng nhiều nguy cơ hơn cả vì trên hướng Trung tâm, quân Đức chỉ có 70 sư đoàn.[34]

Từ nhận định đó, các thành viên trong Đại bản doanh đã có ba luồng ý kiến khác nhau. G. K. ZhukovB. M. Shaposhnikov chủ trương phòng ngự chiến lược, tạm thời không nên mở các cuộc tiến công lớn. Các cuộc tấn công bộ phận cũng không nên mở quá nhiều vì nó sẽ ngốn hết lực lượng dự bị và sử dụng chúng một cách phân tán, gây khó khăn lớn khi tổ chức tổng phản công sau này. Zhukov cho rằng chỉ nên mở một cuộc tấn công cục bộ để xóa bàn đạp Rzhev-Viazma nguy hiểm của quân Đức trên hướng Moskva. I. V. Stalin và các nguyên soái K. E. Voroshilov, S. K. Timoshenko chủ trương cần mở nhiều chiến dịch tấn công tại các khu vực Krym, Leningrad, Demyansk, Smolensk, Lgov-Kursk để cải thiện thế trận. Về hướng Moskva, I. V. Stalin còn quả quyết rằng quân Đức sẽ mở mũi tấn công chính từ Bryansk và Orion vòng qua phía nam và Đông Nam Moskva để tiến ra thượng lưu sông Volga tại Gorky, cô lập Moskva với các vùng Povolzhe, Ural và sau đó, đánh chiếm thủ đô. Nguyên soái S. M. Budyonny thì đề nghị cần lưu ý đến hướng Kavkaz vì binh lực của quân đội Liên Xô tại vùng này rất mỏng.[35]

Những kết luận không dứt khoát của cuộc họp quan trọng ngày 27 tháng 3 năm 1942 đã dẫn đến những kế hoạch quân sự không phù hợp với tình hình thực tế ngay từ việc phân phối lực lượng dự bị. Trong số các phương diện quân trên cánh Nam của mặt trận Xô-Đức thì Phương diện quân Bryansk được bố trí nhiều lực lượng tăng viện nhất, gồm Tập đoàn quân xe tăng 5, 4 quân đoàn xe tăng độc lập, 4 lữ đoàn xe tăng độc lập, 7 sư đoàn bộ binh và 11 lữ đoàn bộ binh độc lập. Đến lúc đó, nguyên soái B. M. Shaposhnikov phải nói thẳng rằng do chưa kết luận được về khả năng quân Đức sẽ giáng đòn tấn công chủ yếu vào đâu thì tốt nhất là nên giữ nguyên các lực lượng dự bị để khỏi bị động về sau. Chỉ có G. K. Zhukov đồng tình với ý kiến này.[36] A. M. Vasilevsky cũng nhận xét rằng điểm yếu nhất của kế hoạch này là vừa phòng ngự, lại vừa phản công nhưng I. V. Stalin không cho ông nói hết ý kiến của mình.[37]

Trong khi đại bản doanh còn chưa thống nhất về chiến lược hành động tấn công cục bộ hay phòng thủ tích cực thì Nguyên soái S. K. Timoshenko phụ trách khu vực mặt trận Tây Nam đồng thời là tư lệnh Phương diện quân Tây Nam còn đem đến hội nghị cả một kế hoạch sơ bộ dự kiến đòn tấn công ở khu vực Izyum-Barvenkovo. Bản báo cáo ý đồ chiến dịch có đoạn viết:

Quân Đức ở hướng Tây Nam đã tập trung khối binh lực lớn đến 102 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn xe tăng, 7 sư đoàn cơ giới, 3 sư đoàn SS... Mặc dù vậy, quân đội tại khu vực mặt trận Tây Nam trong chiến cục Xuân - Hè 1942 sẽ cố gắng đạt được mục tiêu chiến lược cơ bản là đập tan sức phản kháng của kẻ địch, tiến tới vùng trung lưu sông Dniepr tại Gomel, Kiev, Cherkasy và sau nữa, sẽ tiến ra tuyến Pervomaisk - Nikolaev
— S. K. Timoshenko, [38]

Cần lưu ý rằng trên thực tế, mãi đến mùa thu năm 1943, quân đội Liên Xô mới đạt được mục tiêu này. Kế hoạch này gây ra cuộc tranh luận và mối hoài nghi lớn giữa Bộ Tổng tham mưu với Bộ chỉ huy Phương diện quân Tây Nam nhưng nó lại được I. V. Stalin "giải quyết" bằng một mệnh lệnh:

Bộ Tổng tham mưu cần coi chiến dịch đó là công việc nội bộ của khu vực mặt trận và không được can thiệp vào bất cứ vấn đề gì của chiến dịch
— I. V. Stalin, [39]

Các sự kiện về sau đã cho thấy rõ Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya bị thất bại nặng nề và nó trở thành khúc dạo đầu cho một loạt những đòn tấn công lớn của quân đội Đức Quốc xã trên khu vực phía tây nam và Nam của mặt trận Xô-Đức, đưa lại nhiều thiệt hại to lớn và thế bất lợi chiến lược cho quân đội Liên Xô mà phải mất hơn nửa năm sau, quân đội Liên Xô mới khôi phục lại được quyền chủ động chiến lược bằng Trận Stalingrad.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Blau http://users.pandora.be/stalingrad/germanpart/dir4... http://cgsc.cdmhost.com/cgi-bin/showfile.exe?CISOR... http://www.imdb.com/title/tt0107547/ http://rus-sky.com/history/library/w/w06.htm#_Toc5... http://www.lexikon-der-wehrmacht.de/Gliederungen/H... http://www.lexikon-der-wehrmacht.de/Gliederungen/H... http://www.lexikon-der-wehrmacht.de/Gliederungen/L... http://www.lexikon-der-wehrmacht.de/Gliederungen/L... http://web.archive.org/web/20090506092909/http://m... http://www.worldcat.org/title/when-titans-clashed-...